Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015. Tuy nhiên, do phát hiện một số vấn đề lỗi kỹ thuật cho nên được tiến hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung; đến ngày 20/6/2017 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV ban hành Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 và sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2017).
BLHS 2017 chưa có hiệu lực thi hành, song qua nghiên cứu nội dung của BLHS 2017 cho thấy, BLHS 2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có một số quy định mới, thể hiện sự tiến bộ trong trình độ lập pháp của nước ta, cũng như thể hiện tính phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong bài viết này, tôi chỉ đi vào trình bày một số điểm mới trong quy định của BLHS 2017 về hai tội danh trên chứ không đi vào phân tích. Đồng thời, qua đây cũng trình bày một số điểm đã được sửa đổi, bổ sung so với BLHS 2015. Cụ thể:
*. Những quy định mới của BLHS 2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
So với BLHS 1999, BLHS 2015 thì trong BLHS 2017 đã xây dựng một số điểm mới thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp của nước ta trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể như:
- Sửa đổi, bổ sung các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại khoản 1 Điều 174 BLHS 2017. Theo đó, sửa đổi và bổ sung thêm các dấu hiệu phạm tội mới thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng:
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội sau chưa được xóa án tích mà còn vi phạm: tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (điểm b khoản 1 Điều 174 BLHS 2017 quy định là “… các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này”). Đây là sự bổ sung theo hướng cụ thể các tội có liên quan đến căn cứ “chiếm đoạt tài sản”, cụ thể hơn so với quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS 1999 (quy định chung chung), nhằm tránh trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng thiếu chuẩn xác trong việc nhận định như thế nào là “hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” do hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản trong BLHS bao gồm nhiều tội danh.
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội (điểm c khoản 1 Điều 174 BLHS 2017).
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ (điểm d khoản 1 Điều 174 BLHS 2017). Quy định này đã cụ thể hóa một số trường hợp xảy ra trên thực tế khi định giá tài sản bị thiệt hại (phương tiện kiếm sống chính của người bị hại) là rất thấp nhưng do BLHS 1999 chưa quy định nên không có căn cứ truy cứu TNHS, BLHS 2017 khắc phục vấn đề này nhằm tránh các trường hợp bỏ lọt tội phạm. Điều 174 BLHS 2017 bỏ tình tiết “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” (quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 174 BLHS 2015) là phù hợp, vì sẽ gây khó khăn cho quá trình áp dụng điều luật trong hoạt động điều tra – truy tố - xét xử, vì nhận thức khác nhau về việc áp dụng một số tình tiết đó, cũng như hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể cho một số tình tiết này và nội hàm của một số tình tiết đó trùng lắp với các tình tiết khác trong điều luật.
+ Khoản 2 Điều 174 BLHS 2017 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” (điểm g khoản 2 Điều 139 BLHS 1999), việc loại bỏ tình tiết này là phù hợp, bởi căn cứ xác định “gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tế áp dụng rất khó khăn, mặc dù có quy định tại tiểu mục a mục 3.4 phần I Thông tư 02/2001 của BLHS 1999.
Và BLHS 2017 đã bỏ quy định tại điểm g khoản 2 Điều 174 BLHS 2015:“Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này”.
+ Khoản 3 Điều 174 BLHS 2017 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” (điểm b khoản 3 Điều 139 BLHS 1999) và bỏ tình tiết “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này” (điểm b Khoản 3 Điều 174 BLHS 2015). Đồng thời, cũng như BLHS 2015, BLHS 2017 quy định mới thêm một tình tiết định khung khác là “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”, đây là quy định hợp lý, nhằm tránh các trường hợp phạm tội phát sinh trong những điều kiện khách quan đặc biệt mà chưa có quy định dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
+ Khoản 4 Điều 174 BLHS 2017 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm b khoản 4 Điều 139 BLHS 1999) và bỏ tình tiết:“…b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này (điểm b Khoản 4 Điều 174 BLHS 2015). Đồng thời, cũng như BLHS 2015, BLHS 2017 quy định mới thêm một tình tiết định khung khác là c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp…”, đây là sự bổ sung hợp lý, nhằm tránh bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp cụ thể, nhất là trong điều kiện chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì sự manh nha hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản gia tăng rất nhiều.
* Những quy định mới của BLHS 2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Cũng như quy định tại Điều 174 BLHS 2017, so với BLHS 1999 và BLHS 2015 thì trong BLHS 2017 đã xây dựng một số điểm mới thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp của nước ta trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cụ thể như:
+ Sửa đổi, bổ sung trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 4.000.000 đồng nhưng “tài sản đó là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”, bỏ tình tiết “hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” (quy định tại Khoản 1 Điều 175 BLHS 2015),quy định này đã cụ thể hóa một số trường hợp xảy ra trên thực tế khi định giá tài sản bị thiệt hại là rất thấp nhưng do BLHS 1999 chưa quy định nên không có căn cứ truy cứu TNHS, BLHS 2017 khắc phục vấn đề này nhằm tránh các trường hợp bỏ lọt tội phạm. Việc bỏ tình tiết “hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” là phù hợp, vì sẽ gây khó khăn cho quá trình áp dụng điều luật trong hoạt động điều tra – truy tố - xét xử, vì nhận thức khác nhau về việc áp dụng một số tình tiết đó, cũng như hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể cho một số tình tiết này và nội hàm của một số tình tiết đó trùng lắp với các tình tiết khác trong điều luật. Đồng thời so với BLHS 2015 thì Điều 175 BLHS 2017 đã xây dựng thêm chủ thể thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra “gia đình người bị hại”, tức phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi tội phạm bị mở rộng hơn.
+ Khoản 1 Điều 175 BLHS 2017 đã xây dựng lại căn cứ “hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” (khoản 1 Điều 140 BLHS 1999) theo hướng quy định người phạm tội trước đó đã bị kết án cụ thể về tội phạm nào, đó là “hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này”, nhằm tránh trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng thiếu chuẩn xác trong việc nhận định như thế nào là “hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” do hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản trong BLHS bao gồm nhiều tội danh.
+ Điều 175 BLHS 2017 đã được sửa đổi, bổ sung mới lại so với BLHS 2015 về hành vi khách quan của tội phạm, theo hướng sửa đổi dấu hiệu “…hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó” (điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS 1999), dấu hiệu “dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” (điểm a Khoản 1 Điều 175 BLHS 2015) thành dấu hiệu “dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” (điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS 2017), tức là bổ sung lại tình tiết “hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó”, đây là dấu hiệu mới của tội này.
+ Khoản 2 Điều 175 BLHS 2017 kế thừa quy định của Điều 175 BLHS 2015, đã bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” (điểm e khoản 2 Điều 140 BLHS 1999), việc loại bỏ tình tiết này là phù hợp, bởi căn cứ xác định “gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tế áp dụng rất khó khăn, mặc dù có quy định tại tiểu mục a mục 3.4 phần I Thông tư 02/2001 của BLHS 1999. Và tại BLHS 2017 đã bổ sung điểm b khoản 2 Điều 175 tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” làm tình tiết định khung hình phạt tăng nặng, đây là quy định hợp lý và rất cần thiết nhằm để răn đe, trừng trị đối với những người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, sống bằng việc lạm dụng niềm tin người khác để chiếm đoạt tài sản.
Đồng thời, Khoản 2 Điều 175 BLHS 2017 đã bổ sung điểm e khoản 2 Điều 175 tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
+ Khoản 3 Điều 175 BLHS 2017 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” (điểm b khoản 3 Điều 140 BLHS 1999), bỏ tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (điểm b Khoản 3 Điều 175 BLHS 2015).
+ Khoản 4 Điều 175 BLHS 2017 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm b khoản 4 Điều 140 BLHS 1999) và chỉ quy định tình tiết định lượng giá trị tài sản bị thiệt hại “chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên”.
+ Điểm mới khác được sửa đổi tại Điều 175 BLHS 2017 đó là thay đổi trong hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Theo đó, ở hình phạt chính thì mức hình phạt tương ứng ở các khoản 1, khoản 3, khoản 4 Điều 175 BLHS 2017, riêng khoản 2 được giữ nguyên mức hình phạt. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 175 BLHS 2017 đã nâng mức hình phạt tù tối thiểu từ ba tháng (khoản 1 Điều 140 BLHS 1999) lên sáu tháng tù; khoản 3 Điều 175 BLHS 2017 sửa đổi mức hình phạt tù xuống từ năm năm đến mười hai năm (khoản 3 Điều 140 BLHS 1999: phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm); khoản 4 Điều 175 BLHS 2017 sửa đổi mức hình phạt tù xuống từ mười hai năm đến hai mươi năm, bỏ hình phạt chung thân (khoản 4 Điều 140 BLHS 1999: phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc chung thân).
Đồng thời, điểm mới về khung hình phạt trong quy định của Điều 175 BLHS 2015 so với Điều 140 BLHS 1999 đó là, tại khoản 3 Điều 140 BLHS 1999 quy định mức hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, không có khoảng giao thoa với khoản 2 Điều 140 BLHS 1999 (mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm). Còn khoản 3 Điều 175 BLHS 2017 quy định mức hình phạt từ năm năm đến mười hai năm tù, có khoảng giao thoa với khoản 2 Điều 175 BLHS 2017 và nhẹ hơn khoản 3 Điều 140 BLHS 1999.
Ngoài ra, Khoản 5 Điều 175 BLHS 2017 về cơ bản là giống với khoản 5 Điều 140 BLHS 1999, chỉ khác ở chỗ: Khoản 5 Điều 140 BLHS 1999 quy định hình phạt “bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” có thể được áp dụng đồng thời với hình phạt “bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, tức là người phạm tội có thể vừa bị mất tài sản lại vừa bị “mất công việc”, nhưng theo khoản 5 Điều 175 BLHS 2017, thì chỉ được áp dụng một trong hai hình phạt bổ sung này, như vậy thể hiện tính chất nhân đạo hơn với người phạm tội.
Bùi Thế Phương