Qua công tác kiểm sát giải quyết án dân sự,kinh doanh thương mại… trong 6 tháng đầu năm 2021, đơn vị đã phát hiện nhiều vi phạm của Tòa án cùng cấp và đã ban hành kiến nghị, cụ thể các dạng vi phạm như:
- Vi phạm về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn gủi Bản án, Quyết định; bản án chưa đúng mẫu quy định…
- Tòa gửi trễ hạn các thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát, chưa thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự (12 thông báo).
- Tòa gửi trễ hạn các quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chưa thực hiện đúng khoản 3 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự (02 quyết định).
- Tòa gửi trễ hạn các quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, chưa thực hiện đúng khoản 1 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự (02 quyết định).
- Tòa để quá hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, chưa thực hiện đúng Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự (23 vụ án dân sự, 08 vụ án hôn nhân và gia đình, 01 vụ án hành chính và 01 vụ kinh doanh thương mại).
Bên cạnh đó, có vụ án Tòa đã hoàn thành xong các thủ tục tố tụng và thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng không kịp thời đưa vụ án ra xét xử dẫn đến quá hạn luật định.
Điển hình như vụ án dân sự “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn chị Võ Thị Kim Th với bị đơn chị Huỳnh Thị G. Thẩm phán ra thông báo thụ lý vụ án số 15/2019/TB-TLVA ngày 15/02/2019, đến ngày 20/3/2019 thì hoàn thành xong tất cả các thủ tục tố tụng và thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, từ ngày 20/3/2019 đến 12/4/2021 (trên 02 năm), Thẩm phán không có hoạt động tác nghiệp nào khác nhưng không đưa vụ án ra xét xử.
- Tòa chưa nhận định ý kiến của Viện kiểm sát là phù hợp hay không tại phần nhận định của Tòa án (theo mục ghi chú số 26), không đúng mẫu số 52 của Tòa án nhân dân tối cao ban hành theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 (07 bản án sơ thẩm).
- Vi phạm về việc xử lý đơn khởi kiện và thụ lý vụ án (Điều 191, 195 BLTTDS)
- Vụ án hôn nhân và gia đình về việc “ly hôn” giữa nguyên đơn chị Lê Thị Bích Ng với bị đơn anh Nguyễn Minh Đ. Chánh án phân công Thẩm phán xem xét đơn kiện ngày 29/8/2019 nhưng đến ngày 05/5/2020 (sau 8 tháng) thì Thẩm phán mới thông báo cho chị Ng nộp tạm ứng án phí và thụ lý vụ án.
- Vụ án dân sự “tranh chấp về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở lối đi”, giữa nguyên đơn ông Phan H, bà Nguyễn Thị S với bị đơn ông Trần Văn N, bà Lê Thị H. Tòa có giấy báo nhận đơn khởi kiện từ ngày 23/01/2017 nhưng đến 26/02/2019 (trên 02 năm) mới thông báo cho người khởi kiện nộp tiền tạm ứng án phí và thụ lý vụ án.
- Vụ án dân sự “tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”, giữa nguyên đơn ông Lê Trọng C với bị đơn ông Lê Hữu L. Tòa nhận đơn khởi kiện 05/10/2016 nhưng đến ngày 09/6/2020 (trên 3 năm) mới ra thông báo thụ lý vụ án, ra quyết định phân công thẩm phán, thư ký tiến hành tố tụng.
- Các vi phạm khác
UBND thị xã Hoài Nhơn có văn bản trả lời và cung cấp hồ sơ về nguồn gốc các thửa đất tranh chấp nhưng Tòa chưa ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, gửi cho đương sự và Viện KSND thị xã Hoài Nhơn theo Điều 216 Bộ luật Tố tụng dân sự (điển hình như vụ Lê Hữu Duy C tranh chấp đòi lại tài sản với Nguyễn Phúc H – tạm đình chỉ 24/6/2015, UBND thị xã Hoài Nhơn đã có Công văn trả lời số 352/UBND-TNMT ngày 21/4/2017).
Bên cạnh đó, Tòa ra quyết định tạm đình chỉ với lý do cần đợi kết quả thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án khác theo điểm đ khoản 1 Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự, đã hết thời hạn 01 tháng theo quy định tại khoản 3 Điều 105 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng Tòa chưa có văn bản đôn đốc hay tiến hành các thủ tục tố tụng tiếp theo để giải quyết vụ án theo khoản 5 Điều 105 Bộ luật Tố tụng dân sự:“Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này hoặc đã thực hiện việc ủy thác nhưng không nhận được kết quả trả lời thì Tòa án giải quyết vụ án trên cơ sở chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ việc dân sự” (vụ Phan Thị Thanh T tranh chấp chia tài sản chung với Mai Xuân V – tạm đình chỉ từ ngày 30/9/2015, Phan Th tranh chấp quyền sử dụng đất với Phan Đình T – tạm đình chỉ từ 30/7/2013, Trần Đức H tranh chấp quyền sử dụng đất với Đoàn Thế H – tạm đình chỉ từ 26/9/2017, Nguyễn Thị Ngọc Th tranh chấp quyền sử dụng đất với Nguyễn Thị Mỹ D – tạm đình chỉ từ 24/10/2018).
Những thiếu sót nêu trên của Tòa cấp sơ thẩm là một trong những nguyên nhân dẫn đến các đương sự có đơn thư khiếu kiện kéo dài, vượt cấp, phản ứng gay gắt tại các buổi tiếp công dân, tiếp xúc cử tri của lãnh đạo cấp ủy và chính quyền địa phương. Để đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ cho yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương; Viện KSND thị xã Hoài Nhơn đã ban hành Kiến nghị số 419/KN-VKS-DS ngày 31/5/2021, yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn có biện pháp khắc phục./.
Nguyễn Hữu Phước