Trao đổi một số kinh nghiệm trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự

Trong kế hoạch công tác năm 2017, Viện KSND tỉnh Bình Định đăng ký thực hiện khâu đột phá trong lĩnh vực hình sự là “Hạn chế án trả điều tra bổ sung do lỗi của Kiểm sát viên”. Để làm tốt khâu công tác này, chúng ta cần thực hiện một số vấn đề sau:

I. Một số kỹ năng cần tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra trong một số lĩnh vực (khâu công tác)

 

Muốn làm tốt các vấn đề trên, đối với ngành Kiểm sát Bình Định nói chung và đối với người cán bộ, Kiểm sát viên nói riêng là cần phải nghiên cứu, thực hiện tốt Điều 14 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Chỉ thị 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

 

1. Những vấn đề cần lưu ý

 

Trong giai đoạn kiểm sát tin báo tố giác tội phạm được quy định tại Điều 113/BLTTHS năm 2003;Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Thông tư liên số 05/2005 ngày 07/9/2005 của VKSNDTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa Viện KSND tối cao và Cơ quan Điều tra, truy tố các vụ án hình sự; Thông tư số 01/2010 TTLT ngày 28/7/2010 của BCA-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn thực hiện quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung

 

Về nội dung sự phối hợp trong từng chế định tố tụng cụ thể như nắm, quản lý tin báo tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố… khám nghiệm tử thi, hiện trường.

 

Qua một thời gian thực hiện đã đạt được những kết quả nhất định trong sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là giữa Viện kiểm sát và Cơ quan Điều tra. Nhưng qua đó cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết án hình sự nên cần phải có sự nghiên cứu để tìm giải pháp khắc phục trong thời gian đến.

 

Do đó, cần nhận thức đúng vai trò công tố: Luật TC VKSND năm 2014 đã nêu và phân biệt rõ chức năng thực hành quyền công tố (Điều 3) và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 4). Đối với chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra, xác minh; hoạt động công tố của Viện kiểm sát mang tính quyết định và tính chịu trách nhiệm trong việc truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm. Chỉ có nhận thức đúng đắn những nội dung này thì mới làm đúng vai trò, trách nhiệm của mình. Thực tế hiện nay rất nhiều cán bộ, Kiểm sát viên bỏ qua việc nghiên cứu lý luận cơ bản, những quy định chung mang tính căn cơ mà tư duy theo kiểu sự vụ “việc đến đâu, tra cứu, làm đến đó”, làm việc theo kiểu kinh nghiệm lối mòn, nhiều người còn chưa làm hết trách nhiệm, lẫn lộn giữa công tố với kiểm sát điều tra, coi việc giải quyết tin báo tố giác tội phạm và việc khởi tố điều tra hay không khởi tố là trách nhiệm của Cơ quan điều tra, còn Viện kiểm sát chỉ khi nào chuyển hồ sơ sang thì mới kiểm sát nên dẫn đến thụ động, chờ việc, phụ thuộc và kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra nên gần như không có tác động công tố hoặc có thì cũng rất hạn chế trong giai đoạn tiền khởi tố. Chính điều này đã làm mất đi quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát, không thể hiện đúng vai trò của cơ quan công tố, thiếu tính chủ động tham gia phối hợp, định hướng giải quyết ngay từ khi thụ lý, giải quyết tin báo tố giác tội phạm, thậm chí có thái độ thoái thác cho Cơ quan điều tra và nhiều trường hợp xuôi chiều, bằng lòng theo kết quả điều tra dẫn đến xảy ra một số trường hợp làm oan, sai, bỏ lọt tội phạm.

 

- Theo số liệu thống kê, tổng hợp năm 2015 của Viện KSND tối cao và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì Viện kiểm sát đã trả hồ sơ cho Cơ quan Điều tra 999 vụ/62.961 vụ chiếm 1,59% án kết thúc điều tra đề nghị truy tố của CQĐT.

 

Trong đó trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ quan trọng (khoản 1 Điều 168 BLTTHS) như: Chưa có kết quả giám định chữ viết, định giá tài sản (chưa xác định như ở tỉnh ta là vụ tràn dầu ở Cảng Quy Nhơn) thiếu chứng cứ buộc tội, thiếu lời khai chiếm tỉ lệ 86.99% trên tổng số vụ án trả hồ sơ.

 

Trả hồ sơ do có căn cứ khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm (bỏ lọt tội phạm) theo khoản 2 Điều 168 BLTTHS, loại này chiếm 11.1%.

 

Trả hồ sơ do vi phạm nghiêm trọng BLTTHS (khoản 3 Điều 168 BLTTHS), không làm thủ tục cho người bào chữa cho bị can thuộc diện bắt buộc, phô tô tài liệu không phải bản gốc chiếm 1.9%.

 

Liên hệ tỉnh ta trong năm 2016, án trả hồ sơ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là 15 vụ/ 616 vụ khởi tố điều tra (tăng 06 vụ so với năm 2015) cao hơn chỉ tiêu đăng ký là 0.4% (2.4%). Trong đó có vụ do lỗi của Kiểm sát viên hay do người nghiên cứu nhận thấy xử lý chưa thỏa đáng nên trả điều tra bổ sung mà đáng ra không phải trả, làm tăng tỷ lệ án trả điều tra bổ sung.

 

Ngoài những nguyên nhân trên, thì nguyên nhân chủ yếu là mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan Điều tra còn một số tồn tại cần phải chấn chỉnh khắc phục là:

 

* Việc tiếp nhận, xử lý tố giác tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố thực hiện chưa chính xác, chưa đúng quy định của Thông tư 06 nên chất lượng hiệu quả chưa cao như: trong sổ ghi chép tiếp nhận chưa phản ánh đầy đủ những thông tin cần thiết, hay phản ánh chưa rõ nội dung.

 

Việc phân loại tin báo tố giác về tội phạm và phân công Điều tra viên thụ lý xác minh còn chậm dẫn đến hồ sơ chuyển đến Viện kiểm sát càng chậm hơn làm cho việc định hướng, xác minh tin báo thiếu chính xác.

 

Những vụ việc tin báo xảy ra ở địa phương phường, xã thụ lý xác minh báo cao nhưng khi chuyển lên cấp huyện thường tài liệu thu thập ban đầu không đầy đủ, không đúng thủ tục, nhiều thiếu sót nên Cơ quan điều tra cấp huyện phải thu thập lại dẫn đến chậm hoặc vướng mắc không thể giải quyết dứt điểm được dẫn đến kéo dài thời hạn (Nay mới giao cho Công an xã được tiến hành thụ lý xác minh tin báo tố giác tội phạm từ đó tăng thêm trách nhiệm của Viện kiểm sát).

 

Để khắc phục những thiếu sót, hạn chế nêu trên chúng ta cần phải nghiên cứu thực hiện tốt một số giải pháp sau:

 

1.1. Công tác khám nghiệm hiện trường, xem kỹ tổng quát địa điểm, địa hình

 

Công tác khám nghiệm hiện trường có chất lượng hay không? Không thể nói chung chung mà phải xem chi tiết hóa của từng nội dung cần phải làm và theo dõi việc thực hiện của Điều tra viên, phải kiểm định chặt chẽ và báo cáo Lãnh đạo. Đây là thể hiện năng lực trình độ chuyên môn và tư duy sáng tạo về nghiệp vụ, từ đó để lãnh đạo đánh giá năng lực của Kiểm sát viên và các ngành liên quan nhận xét năng lực của Kiểm sát viên trong công tác thực hiện chức năng kiểm sát điều tra đó là:

 

Cần thận trọng xem xét kỹ những đặc điểm hình thành như: Dấu viết vân tay, chân, vết máu chảy hoặc phun trào, bắn ra thành tia hoặc đóng cục nơi hiện trường… hung khí, tang vật khả nghi, nhất là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng (giết người), cướp, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản: Thường để lại nhiều dấu vết tại hiện trường, nên Kiểm sát viên cần phải chú ý thật tỉ mỉ, thận trọng những vị trí, địa điểm mà đối tượng nhằm tới như cửa, tủ, quần áo, két sắt... để yêu cầu Điều tra viên, cán bộ Kỹ thuật hình sự thu thập cho đầy đủ. Tuy nhiên, vấn đề thường mắc sai sót nhất là trong khám nghiệm hiện trường giao thông dẫn đến việc giải quyết vụ án phức tạp, bế tắc như vụ Nguyễn An Trường (về mốc giới đo đạc….) hoặc thẩm định đo đạc lại nhưng thành phần tham gia cũng chưa đầy đủ - đây là những lỗi của Kiểm sát viên. Hiện nay tình trạng tai nạn giao thông xảy ra ban đầu ở một số địa phương nhưng Cơ quan điều tra thường không cử Điều tra viên và không mời Kiểm sát viên tham gia khám nghiệm hiện trường, nếu vụ việc đó không có người chết thì chỉ do Cảnh sát giao thông tiến hành làm, đo đạc nên có lúc, có nơi thiếu chính xác; hoặc lấy điểm mốc chưa chuẩn, thu thập dấu vết hiện trường chưa đầy đủ và biên bản khám nghiệm hiện trường, khám phương tiện tham gia giao thông gây tai nạn ban đầu theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là chưa đúng hoặc bỏ sót những dấu viết như: Vết xước trên đường, trên xe hoặc vết trầy tróc để lại trên hiện trường gây tai nạn; còn nếu có Kiểm sát viên tham gia khám nghiệm thường không ghi chép, không yêu cầu thu thập, chụp hình, ghi lại một cách chính xác hoặc không góp ý cho Cơ quan điều tra điều chỉnh kịp thời – mà đó là những căn cứ quyết định xử lý vụ án sau này.

 

Sau khi có người bị thương dẫn đến chết, lúc này Cơ quan điều tra mới hợp thức hóa bằng cách mời đầy đủ thành phần (Điều tra viên, Kiểm sát viên, người làm chứng, lái xe, chủ xe,…) tham gia đo đạc lại, dựng lại hiện trường;  điều này cho thấy độ chính xác không cao, không đầy đủ như ban đầu, dẫn đến khó xử lý sau này như xác định lỗi của các bên, nhất là những vụ va chạm giữa đường… hay dấu vết để lại không rõ nét do cán bộ lập biên bản ban đầu thu thập, ghi chép không đủ, dễ dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để khắc phục các thiếu sót nêu trên, theo tôi các đồng chí Viện trưởng Viện KSND các huyện, thị xã, thành phố bàn bạc với Thủ trưởng Cơ quan điều tra cùng cấp thống nhất quan điểm theo hướng khi có tai nạn giao thông xảy ra là phải cử Điều tra viên và mời Kiểm sát viên tham gia ngay từ đầu để việc xác lập biên bản hiện trường, khám phương tiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý sau này.

 

1.2. Khám nghiệm tử thi

 

- Kiểm sát viên được phân công tham gia phải làm hết chức năng, nghĩa là phải chú ý cơ cấu hình thành các viết thương, phải hỏi bác sĩ pháp y giải thích hay mô tả kỹ những dấu viết khả nghi hoặc chưa phù hợp với diễn biến của sự việc, xác định cho được hướng tấn công của đối tượng, dấu vết chống trả của nạn nhân, nguyên nhân chết… để sau đó so sánh, đối chiếu phù hợp hoặc không phù hợp làm căn cứ đấu tranh với đối tượng (ví dụ như vụ đòi nợ tiền cây cảnh xảy ra ở Quy Nhơn, dùng dấu vết để lại trên người nạn nhân và trên người đối tượng mà đấu tranh buộc tội và tội gì cho chính xác, tay thuận của đối tượng).

 

Mặt khác, cần đối chiếu giữa vết thương để lại trên người nạn nhân và hung khí thu giữ tại hiện trường, cũng như các vết thương khác có phù hợp không? (Ví dụ vụ bà Lê Thị Nhiều ở huyện Tuy Phước chết do đối tượng tấn công, Cơ quan điều tra định hướng buộc bà Lê Thị Hoa là người thực hiện hành vi phạm tội, nhưng Kiểm sát viên đã nghiên cứu, đối chiếu và phát hiện mâu thuẫn nên không phê chuẩn quyết định tố tụng đối với bà Hoa, kịp thời tránh oan, sai. Hoặc vụ án Nguyễn Văn Lợi ở huyện Tuy Phước, do Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ dấu vết, chứng cứ, xem xét mối quan hệ giữa người thực hiện hành vi phạm tội và nạn nhân nên đã cùng với Cơ quan điều tra đấu tranh buộc Lợi khai nhận hành vi giết người).

 

- Nếu kết quả giám định của pháp y, của Viện Khoa học Kỹ thuật hình sự mà chúng ta đối chiếu, so sánh toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ, chứng cứ thu thập được và tài liệu quy chuẩn của ngành y tế dùng để xác định tỉ lệ thương tích thấy có mâu thuẫn thì chúng ta yêu cầu giám định lại (ví dụ như vụ đánh người ở Phù Mỹ trúng dập mắt mà giám định 11%, sau khi yêu cầu giám định lại thì kết quả là 23% tỷ lệ thương tật, từ đó truy tố, xét xử và xử lý xong đơn thư khiếu nại).

 

- Khi tham gia khám nghiệm hiện trường, tử thi xong, Kiểm sát viên phải nghiên cứu và làm báo cáo toàn bộ sự việc cho Lãnh đạo viện (cấp huyện) Lãnh đạo Phòng (cấp tỉnh) về toàn bộ diễn biến và nhận định ban đầu chứ lâu nay không làm việc này (nếu có thì cũng mang tính hình thức, chứ chưa chuyên sâu) nên đòi hỏi việc phân công Kiểm sát viên đi khám nghiệm phải đúng chức danh pháp lý của Ngành, của Bộ luật TTHS quy định và phải chịu trách nhiệm về khâu công tác này (chú ý phải kiên quyết không bị chi phối bởi người khác mà phải đúng luật). Trường hợp vụ chết người chưa rõ nguyên nhân thì Kiểm sát viên phải yêu cầu giải phẩu tử thi để có căn cứ kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân, nếu không giải phẩu (mặc dù ban đầu toàn bộ gia đình ký biên bản thống nhất không cho phải phẩu) nhưng sau khi chôn cất, gia đình họ lại khiếu nại thì phải khai quật tử thi nhưng không kết luận được nguyên nhân chết, dẫn đến đơn, thư khiếu nại nhiều lần, vượt cấp.

 

2. Kiểm sát tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố:

 

Trước hết, chúng ta cần chuyển ngay tư duy cũ là “kiểm sát” giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sang vai trò “thực hành quyền công tố và kiểm sát” giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định trình tự, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, Viện KSND thực hành quyền công tố sớm hơn, ngay từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 159 BLTTHS 2015 và Điều 12 Luật TCVKSND 2014), Viện KSND trực tiếp giải quyết  tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục. Vì vậy, việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không chỉ là nhiệm vụ của Cơ quan điều tra mà đây còn là nhiệm vụ phải được gắn với việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát ngay từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm. Viện Kiểm sát phải chủ động phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra để nắm nguồn tin, đề ra yêu cầu xác minh, nắm rõ tài liệu để đánh giá, chủ động trong việc quyết định việc buộc tội ngay từ khâu này. Trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp xác minh tố giác, tin báo về tội phạm thì cần phải thu thập tài liệu, thực hiện các biện pháp để ra một trong các quyết định khởi tố, không khởi tố hoặc tạm dừng xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

 

- Cán bộ, Kiểm sát viên thụ lý, xử lý tin báo về tội phạm phải phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên bằng việc làm cụ thể đó là: Kiểm sát viên được phân công phải nghiên cứu kỹ nội dung vụ việc của tin báo đó và xây dựng bản yêu cầu xác minh, xây dựng kế hoạch xác minh; đồng thời phải kiểm sát chặt chẽ việc ghi lời khai những người thực hiện hành vi phạm tội và những người liên quan cũng như việc thu thập chứng cứ (có việc ghi âm, ghi hình… Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực…) có những vấn đề gì hay không,có còn nhiều mâu thuẫn không, hay những lời khai nào chưa được thẩm định thì yêu cầu Điều tra viên phải làm ngay.

 

Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp với Điều tra viên để xác minh làm rõ những vấn đề cần chứng minh ngay trong giai đoạn điều tra ban đầu vụ việc, đồng thời tiến hành kiểm sát chặt chẽ các tài liệu, chứng cứ, vật chứng mà Cơ quan điều tra thu thập được.

 

- Nếu nội dung tin báo mà Điều tra viên (Cơ quan điều tra) làm chưa đạt theo yêu cầu của Kiểm sát viên, thì Kiểm sát viên được phân công phải nghiên cứu kỹ và xây dựng kế hoạch phối hợp ghi lời khai hoặc Kiểm sát viên hỏi trực tiếp… chú ý phải hỏi về tình trạng nhân thân, sức khỏe cũng như các mối quan hệ khác của bị can, người bị hại, người liên quan nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án.

 

- Nội dung, kế hoạch xét hỏi sau khi chuẩn bị phải báo cáo Lãnh đạo Phòng (cấp tỉnh), Viện trưởng, Phó viện trưởng (cấp huyện) thẩm định duyệt. Sau khi làm xong phải báo cáo lại cho Lãnh đạo biết là những vấn đề nào đã làm được, những vấn đề nào còn vướng mắc, khó khăn, hay phát hiện những vấn đề gì, tình tiết gì mới phát sinh để từ đó bàn bạc cùng Lãnh đạo đưa ra giải pháp xử lý. Đây là giai đoạn quyết định có hay không sự kiện phạm tội và người phạm tội, nếu có sự việc phạm tội xảy ra thì có đúng người đó thực hiện hành vi phạm tội không; do vậy, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ và chính xác.

 

- Làm tốt các chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, Kiểm sát viên thì sẽ hạn chế việc xin ý kiến xử lý tin báo, hay để tin báo kéo dài, tồn đọng.

 

- Tất cả các hoạt động của Kiểm tra viên, Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng liên quan đến tố tụng hình sự đều phải báo cáo cho Lãnh đạo phụ trách để nắm bắt chỉ đạo.

 

- Đối với Cơ quan điều tra (Điều tra viên) nên bàn bạc làm thêm những vấn đề gì?

 

- Đối với Lãnh đạo tham mưu nên bàn bạc những vấn đề cơ bản nào, làm rõ thêm chứng cứ nào, vướng mắc ra sao để cùng nhau bàn biện pháp giải quyết đạt hiệu quả cao nhất, rồi sau đó tham mưu cho Lãnh đạo quyết định khởi tố ai, không khởi tố ai? Bắt hay không bắt? Đây cũng là giai đoạn quyết định tránh oan, sai, bỏ lọt.

 

Đây là những căn cứ diễn biến ban đầu của tin báo để kiểm sát viên được phân công nghiên cứu xây dựng yêu cầu xác minh. Nội dung văn bản yêu cầu xác minh phải đúng trọng tâm nội dung vụ việc.

 

3. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra

 

 Căn cứ Điều 15 Luật tổ chức Viện KSND, Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Chỉ thị 06/CT-VKSTC ngày 06.12.2013 của Viện trưởng Viện KSND tối cao.

 

Sau khi đề xuất Lãnh đạo ký phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can,… Kiểm sát viên được phân công cần phải kiểm sát chặt chẽ những vấn đề sau:

 

- Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra thực chất là việc Viện kiểm sát phải thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định tại Điều 112 BLTTHS năm 2003 và sắp tới là Điều 165 BLTTHS năm 2015. Gắn công tố với hoạt động điều tra tức là hoạt động công tố không được tách rời hoạt động điều tra, Viện kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra trong việc phát hiện, xử lý tội phạm một cách khẩn trương, đầy đủ và chính xác. Kiểm sát viên phải “sát cánh” trong quá trình điều tra, nắm chắc tiến độ điều tra, cùng với Điều tra viên giải quyết vụ án chứ không phải chỉ quan sát, nghiên cứu tài liệu, phán xét các hoạt động điều tra sau khi kết thúc điều tra. Phải xác định việc điều tra không đầy đủ, phiến diện, không khách quan, toàn diện dẫn đến những sai lầm trong việc ban hành các quyết định là có lỗi của Kiểm sát viên không thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ, không gắn chức năng công tố của mình với hoạt động điều tra.

 

- Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra vừa là biện pháp căn cơ, lâu dài, vừa là phương thức để Viện kiểm sát thực hiện tốt quyền công tố. Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố được quy định tại Điều 165 và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra quy định tại Điều 166 của BLTTHS năm 2015. Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra là để chứng minh tội phạm, người phạm tội, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Kiểm sát điều tra là kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự để phát hiện vi phạm trong hoạt động điều tra, kiến nghị, yêu cầu kịp thời khắc phục vi phạm, đảm bảo việc điều tra được tuân thủ theo trình tự, thủ tục của pháp luật. Làm tốt công tác kiểm sát điều tra sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện cho hoạt động thực hành quyền công tố được phát huy.

 

- Trong quá trình điều tra, các quyết định của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố có ý nghĩa quyết định đến kết quả cuối cùng của vụ án, tới người bị buộc tội và suy cho cùng, Viện kiểm sát là cơ quan phải chịu trách nhiệm về kết quả điều tra và quyết định xử lý vụ án. Vì vậy, phải coi việc điều tra, thu thập chứng cứ, làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự cũng là nhiệm vụ của mình chứ không phải của riêng Cơ quan điều tra; nên phải đi sâu, bám sát và tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra trong việc thu thập chứng cứ, định hướng điều tra, đề ra yêu cầu điều tra, tăng cường các hoạt động trực tiếp điều tra theo luật như: Tham gia hoạt động đối chất, nhận dạng, hỏi cung, lấy lời khai,… để việc điều tra được hiệu quả, khách quan, toàn diện, hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, không làm oan, sai và bỏ lọt tội phạm.

 

- Ban hành yêu cầu điều tra và phải kiểm sát chặt chẽ

 

Kiểm sát viên phải hiện diện trong tất cả các giai đoạn điều tra, nhất là giai đoạn đầu. Đây là giai đoạn đánh giá chứng cứ rất quan trọng nhằm phát hiện sớm tránh oan, sai (thẩm định lại lần thứ hai), nên Kiểm sát viên phải bám sát tiến độ điều tra. Hàng tuần phải tổng hợp và nắm bắt được những nội dung, chứng cứ, tang vật, tình tiết mới mà Điều tra viên mới thu thập được, những khó khăn, vướng mắc mới phát sinh mà hai bên kiểm sát viên và Điều tra viên bàn bạc hướng giải quyết. Nếu vượt thẩm quyền thì phải báo cáo Lãnh đạo tham mưu hai ngành (cấp tỉnh) Lãnh đạo viện (cấp huyện) để chỉ đạo.

 

 Hỏi cung bị can là một biện pháp hoạt động điều tra do người tiến hành tố tụng tiến hành điều tra theo luật định, là: Yêu cầu bị can phải trình bày một cách logic, có hệ thống, mạch lạc về toàn bộ hành vi phạm tội của mình và những người liên quan (nếu có), nhân chứng,… để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án (nếu bị can không nhận, chối tội), chúng ta dùng chứng cứ, tài liệu liên quan, người làm chứng, vật chứng để buộc bị can phải nhận tội đúng với nội dung, bản chất sự việc về hành vi phạm tội của bị can. Do vậy, cần thiết thì Kiểm sát viên phải trực tiếp xét hỏi trước khi phê chuẩn, việc xét hỏi phải chuẩn bị nội dung, kế hoạch đầy đủ.

 

-  Tham gia xét hỏi cùng Điều tra viên

 

Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra phải nghiên cứu, lên kế hoạch, nội dung câu hỏi để bàn bạc với Lãnh đạo, báo cáo Lãnh đạo xong rồi bàn bạc với Điều tra viên để tiến hành xét hỏi, kết quả xét hỏi báo cáo Trưởng Phòng, Lãnh đạo trong buổi trực báo tuần (hoặc trao đổi cấp trên  trong trực báo tháng).

 

- Kiểm sát trực tiếp tham gia xét hỏi đối với bị can, người có liên quan, người làm chứng… Kiểm sát viên cần phải chủ động làm những vấn đề sau:

 

- Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, phát hiện những vấn đề mà Điều tra viên chưa làm rõ, còn nhiều mâu thuẫn, chưa tiến hành đối chất,… hay những vấn đề liên quan khác nhằm làm sáng tỏ vấn đề về chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Từ đó, Kiểm sát viên xây dựng kế hoạch, nội dung để tiến hành xét hỏi, nội dung này phải trình Lãnh đạo quản lý trực tiếp (cấp Phòng ở tỉnh, Lãnh đạo Viện ở cấp huyện) xét duyệt, thống nhất mới được tiến hành, việc xét hỏi bị can được quy định tại Điều 131 BLTTHS năm 2003.

 

-  Sau khi xét hỏi xong, phát hiện những vấn đề gì mới, chứng cứ mới hay có những chứng cứ mới phát sinh theo hai hướng:

 

+ Củng cố và làm rõ hành vi phạm tội một cách chắc chắn.

 

+ Phát hiện những tình tiết làm thay đổi nội dung vụ án hay có chứng cứ cho rằng lọt tội, không đúng tội danh hoặc oan sai thì phải có báo cáo chi tiết bằng văn bản cho Lãnh đạo để bàn biện pháp giải quyết (vận dụng các phương pháp xét hỏi được ghi rõ trong tạp chí Kiểm sát số 17/2016 từ trang 35-39 của tác giả Nguyễn Anh Tuấn) tuy nhiên để việc xét hỏi đạt kết quả tốt thì chúng ta phải vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp, hình thức xét hỏi và chiến thuật hỏi cung, lấy lời khai một cách logic. Chú ý khoét sâu vào các mâu thuẫn để đấu tranh với bị can, nhân chứng,… nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án.

 

Ví dụ như vụ Nguyễn Trọng Thành ở số 09, Bắc Hà Thanh, thành phố Quy Nhơn bị Nguyễn Quốc Nghĩa chủ động dùng dao đâm chết vào ngày 25/8/2011. Nghĩa chối tội và cho rằng hành vi của mình là phòng vệ chính đáng chứ không cố ý giết người, nhưng qua xem xét dấu vết của bị hại, hướng tấn công của đối tượng… Cơ quan điều tra và Viện KSND tỉnh đã làm rõ hành vi của Nghĩa và Tòa án tỉnh Bình Định đã xét xử, tuyên phạt Nguyễn Quốc Nghĩa tù chung thân.

 

- Trong công tác phối hợp khởi tố vụ án, bị can,... thường là chưa thu thập đầy đủ chứng cứ và những tài liệu liên quan bắt buộc như: Vụ án hiếp dâm không quả tang, chưa tiến hành nhận dạng bị can, chưa lấy lời khai nhân chứng, người biết sự việc, xác minh tuổi của bị can, bị hại, lý lịch tư pháp, việc khám nghiệm pháp y còn mâu thuẫn, giám định pháp y chưa rõ ràng (do Kiểm sát viên không phát hiện kịp thời)... thì phải yêu cầu Điều tra viên thu thập, bổ sung trước khi phê chuẩn nhằm tránh hủy án để điều tra lại.

 

- Việc đánh giá chứng cứ, tài liệu trước khi kết thúc điều tra vụ án là rất quan trọng nhưng một số Kiểm sát viên được phân công chưa phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên hay làm cho có lệ nên không phát hiện được những thiếu sót trong thu thập chứng cứ, tài liệu, thủ tục tố tụng, mà cứ thế lập cáo trạng truy tố ra tòa, khi Tòa án nghiên cứu phát hiện dẫn đến trả điều tra bổ sung.

 

II. Thẩm định hồ sơ ở Cơ quan điều tra trước khi kết thúc điều tra

 

- Việc này lâu nay chúng ta đã nói nhiều, đưa vào chương trình công tác nhưng thực ra Kiểm sát viên được phân công Kiểm sát điều tra đã làm được đến đâu? Phương pháp, kế hoạch làm ra sao thì tôi thấy còn chung chung và Kiểm sát viên đó báo cáo chứ hiệu quả như thế nào, việc phối hợp với Điều tra viên để hoàn thiện hồ sơ chưa được Lãnh đạo Phòng (cấp tỉnh), Viện trưởng (cấp huyện) thẩm định, xem xét trước khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra chuyển đến Viện Kiểm sát đề nghị truy tố. Do vậy, sau khi nghiên cứu, đọc lại toàn bộ hồ sơ mới phát hiện nhiều thiếu sót, mâu thuẫn hoặc thiếu chứng cứ  nên không thể lập cáo trạng để trình Lãnh đạo duyệt truy tố được, dẫn đến phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

 

- Kiểm sát viên còn quá tin vào kết quả điều tra của Điều tra viên, dựa vào bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra để lập cáo trạng truy tố, Lãnh đạo tin vào Kiểm sát viên nên thiếu kiểm tra hoặc có kiểm tra nhưng không phát hiện nên truy tố ra tòa, dẫn đến Tòa án nghiên cứu phát hiện còn những tình tiết, chứng cứ liên quan chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa thu thập được và những vấn đề này không thể khắc phục tại phiên tòa nên phải trả điều tra bổ sung (lỗi của Kiểm sát viên).

 

- Còn Tòa án trả điều tra bổ sung mà qua kiểm tra Viện kiểm sát thấy rằng, nội dung hồ sơ và chứng cứ truy tố bị can là vững chắc nên bảo lưu cáo trạng  hoặc phát sinh tình tiết mới (chúng ta không có lỗi).

 

Từ những phân tích nêu trên thấy rằng, trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên phải luôn hiện diện cùng Điều tra viên trong các giai đoạn điều tra từ ghi lời khai, hỏi cung bị can, nhân chứng, người liên quan, thu thập chứng cứ, rồi so sánh bàn bạc cùng Điều tra viên nên tiến hành những việc gì đầu tiên, tiếp theo, sau đó phải báo cáo cho Lãnh đạo trực tiếp nắm bắt và phối hợp chỉ đạo kịp thời để khắc phục những sai sót trên.

 

- Nội dung Kiểm sát viên đi làm phải được ghi chép đầy đủ trong sổ, trong hồ sơ cụ thể cả về thời gian và nội dung làm việc để Lãnh đạo trực tiếp nắm bắt, quản lý chứ không phải đi làm gì cũng được, hay qua Cơ quan điều tra “ngồi chơi xơi nước” hết giờ thì về; còn việc hỏi cung bị can, ghi lời khai nhân chứng phó mặc cho Điều tra viên trực tiếp thụ lý điều tra vụ án rồi sau đó ghi tên ký vào biên bản ghi lời khai cũng như biên bản hỏi cung mà không hề biết Điều tra viên ghi những nội dung gì. Mặt khác khi kiểm tra hồ sơ, Kiểm sát viên phải chú ý những lời khai của bị can mà có luật sư bào chữa, đối chiếu xem có đúng, có luật sư tham gia không, có ý kiến của luật sư không? hay đây là những tài liệu hợp thức hóa của Cơ quan điều tra cho đúng luật – Vì đây cũng là khâu yếu trong kiểm sát điều tra (do vậy, khi làm phải lập biên bản kiểm tra, đánh giá chứng cứ trước khi xây dựng bản kết luận điều tra).

 

III. Kết thúc điều tra, phúc cung bị can

 

1. Nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ vụ án, qua đó cần thẩm định lại, phúc cung lại - như vậy Kiểm sát viên cần làm những vấn đề gì?

 

- Xây dựng kế hoạch phúc cung bị can để kiểm tra lại độ chính xác về hành vi phạm tội của từng bị can. Sau khi phúc cung phải báo cáo đầy đủ cho Lãnh đạo trực tiếp nắm bắt.

 

- Phát hiện những vấn đề chứng cứ chưa được làm sáng tỏ thì Kiểm sát viên phải báo cáo Lãnh đạo trực tiếp và chuẩn bị nội dung xét hỏi một cách khoa học, đầy đủ trình Lãnh đạo duyệt lại rồi tiến hành xét hỏi trước khi ghi lời khai. Biên bản hỏi cung bị can, đối tượng liên quan đều phải kiểm tra, xem xét hỏi về sức khỏe, không được làm hời hợt, chủ quan, cả tin hoàn toàn vào tài liệu thu thập của Cơ quan điều tra.

 

2. Xây dựng cáo trạng (Đúng theo mẫu số 107 ban hành kèm theo quy chế số 07 của VKSNDTC), bản cáo trạng có 03 đặc trưng sau: Mang tính quyền lực Nhà nước; Tính có căn cứ và đúng pháp luật; Việc truy tố phải đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân.

 

Nhưng qua theo dõi thấy rằng, nội dung cáo trạng thường viết phổ biến hai dạng là quy nạp và diễn giải, nhưng qua kiểm tra thực tế thấy:

 

- Về nội dung: Thường trình bày mô tả diễn giải dong dài, nhiều tình tiết đưa vào không cần thiết, không có giá trị chứng minh chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội… nên đòi hỏi chúng ta phải đọc kỹ, nghiên cứu kỹ, xây dựng cho cô động, sắc sảo, chính xác, thuyết phục về chứng cứ buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng  và giảm nhẹ.

 

Do vậy, nội dung cáo trạng nên viết theo dạng quy nạp đối với vụ án ít bị can, hành vi rõ ràng, đi thẳng vào vấn đề (nội dung chính). Khi viết phải tính toán, sắp xếp các sự kiện một cách logic, có thứ tự theo thời gian, không gian kể từ khi chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội đến việc phân công, bàn bạc thống nhất với các đồng phạm, cách thức tiếp cận địa điểm phạm tội, phương pháp, thủ đoạn và cách thức thực hiện.

 

- Còn vụ án mà bị can thực hiện hành vi phạm tội thời gian kéo dài, nhiều lần, nhiều nơi, nhiều bị can, có liên quan đến nhiều vụ án, phạm tội có tổ chức, phạm nhiều tội, có nhiều động cơ và mục đích khác nhau thì phải viết theo cách diễn giải để mô tả, phân tích cho biết hành vi phạm tội của từng tên, sau đó quy kết buộc lại.

 

- Để thẩm định, đối chiếu những nội dung trong cáo trạng phải viện dẫn bằng các bút lục, bút lục không phải theo từng chứng cứ nhỏ mà là những bút lục có giá trị chứng minh về hành vi phạm tội của bị can; các bút lục chứng minh được động cơ, mục đích, ý thức chủ quan, sự mong muốn của bị can, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ (chứ không phải liệt kê hàng loạt ở 01 hàng 01 đoạn).

 

- Những thiếu sót chúng ta thường ít quan tâm:

 

+ Việc áp dụng tái phạm, tái phạm nguy hiểm còn lúng túng, chưa thống nhất cách hiểu để vận dụng.

 

+ Về chứng cứ gỡ tội, ít khi được đưa vào cáo trạng

 

+ Về trách nhiệm dân sự, thường không nêu hoặc có nêu nhưng chưa chính xác. Vấn đề này phải căn cứ cả Điều 42 BLHS 1999 và Điều 609 quy định bồi thường về thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại, Điều 610/BLDS bồi thường về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm,… Đề nghị phải được khắc phục trong thời gian đến.

 

* Kết luận: Trên đây là những vấn đề đúc kết từ thực tiễn đã xảy ra, vậy tôi đề nghị các đồng chí làm nghiệp vụ hình sự phải đi sâu nghiên cứu, đối chiếu với phần lý luận và thực tiễn, nắm chắc hai Bộ luật Hình sự và Tố tụng hình sự để vận dụng một cách linh hoạt, chính xác nhằm đạt hiệu quả cao nhất, khắc phục các nhược điểm đã xảy ra trước đây. 

 

Nguyễn Thành Quát

CÁC BÀI LIÊN QUAN

Trở về 1 2 3 4 5 Tiếp

Số lượt truy cập:7,774,904 lượt

Số người online:2,623 người

© Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định thiết kế và giữ bản quyền
Mong bạn đọc góp ý kiến. Thư điện tử liên hệ: trangtinvks_binhdinh@vks.gov.vn