Một số điểm mới nổi bật của Bộ luật Lao động năm 2019

Sau gần 08 năm áp dụng vào thực tiễn, Bộ luật Lao động năm 2012 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2013) đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho việc thực hiện, cũng như ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Để khắc phục những bất cập này, tại kỳ họp thứ 8 ngày 20/11/2019, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 và thay thế cho Bộ luật Lao động năm 2012.

Theo đó, Bộ luật Lao động năm 2019 được kết cấu 17 Chương với 220 Điều và có một số điểm mới nổi bật so với Bộ luật Lao động năm 2012, như sau:
Thứ nhất, quy định về hình thức hợp đồng lao động
- Xuất phát từ thực tiễn, với sự phát triển của khoa học công nghệ thì việc giao kết hợp đồng lao động không đơn thuần chỉ bằng văn bản, lời nói mà còn được giao kết thông qua phương tiện điện tử. Do đó, khoản 1 Điều 14 Bộ luật Lao động năm 2019 đã bổ sung quy định: “hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản” mà Bộ luật Lao động năm 2012 không quy định. Như vậy, hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu thì có giá trị như hợp đồng bằng văn bản.
- Khoản 2 Điều 14 Bộ luật Lao động năm 2019, quy định: “có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng”, so với quy định tại khoản 2 Điều 16 Bộ luật Lao động năm 2012 thì “đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói”. Như vậy, theo Bộ luật Lao động năm 2019 thì đối với hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng thì có thể giao kết bằng lời nói, còn đối với hợp đồng lao động có thời hạn từ 01 tháng trở lên thì bắt buộc giao kết phải bằng văn bản hoặc thông qua phương tiện điện tử. 
Thứ hai, quy định về loại hợp đồng lao động
Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong 2 loại: hợp đồng lao động không xác định thời hạn (là hợp đồng không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng) hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn (là hợp đồng xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng). Như vậy, so với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012 thì sẽ không còn “hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng”.  
Thứ ba, quy định về thử việc
Khoản 3 Điều 24  Bộ luật Lao động năm 2019, quy định: “không áp dụng thử việc đối với người lao động giao kết hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng”. So với quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật Lao động năm 2012thì chỉ có người lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ (loại hợp đồng có thời hạn dưới 12 tháng) thì không phải thử việc. Như vậy, theo Bộ luật Lao động năm 2019 thì thử việc chỉ áp dụng đối với hợp đồng lao động có thời hạn từ 01 tháng trở lên.
Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập từ việc áp dụng các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động bắt buộc phải có lý do và thời gian báo trước của Bộ luật Lao động năm 2012. Theo đó, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do mà chỉ cần báo trước 45 ngày làm việc với hợp đồng không xác định thời hạn; 30 ngày làm việc với hợp đồng có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc 03 ngày làm việc với hợp đồng có thời hạn dưới 12 tháng.
Đồng thời, khoản 2 Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019, quy định: người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận.
- Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn.
- Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động.
- Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc.
- Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định.
- Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
So với Bộ luật Lao động năm 2012, người lao động ký hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn bắt buộc phải thuộc 01 trong những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 37, đồng thời đáp ứng điều kiện về thời gian báo trước thì người lao động mới được đơn phương chấm dứt. 
Đối với Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do chỉ cần đáp ứng điều kiện về thời gian báo trước tại khoản 1 Điều 35. Riêng những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 35 thì người lao động không cần báo trước. Đây là một quy định hoàn toàn mới của Bộ luật Lao động năm 2019.
Khoản 3 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019, quy định: người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong 02 trường hợp sau:
- Người lao động không có mặt tại nơi làm việc trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
- Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên.
Đây là một quy định hoàn toàn mới của Bộ luật Lao động năm 2019.
Thứ sáutrách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động
Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2019, quy định: Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày...
So với khoản 2 Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012, quy định: Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
Như vậy, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định thời hạn dài hơn khi chấm dứt hợp đồng lao độngđể người sử dụng lao động và người lao động thanh toán các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên. 
Thứ bảy,quy định về nghỉ lễ, tết
Điểm đ khoản 1 Điều 112 Bộ luật Lao động 2019 bổ sung ngày nghỉ lễ: Quốc khánh được nghỉ 02 ngày (ngày 02/9 dương lịch và 01 ngày liền kề trước hoặc sau). So với điểm đ khoản 1 Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2012 chỉ cho nghỉ 01 ngày (02/9) thì Bộ luật Lao động 2019 quy định ngoài nghỉ ngày 02/9 người lao động còn được nghỉ thêm 01 ngày, có thể là ngày 01/9 hoặc ngày 03/9 dương lịch.
Như vậy, tổng số ngày nghỉ lễ, tết hàng năm sẽ nâng lên 11 ngày (so với Bộ luật Lao động năm 2012 là 10 ngày), trong đó: Tết Dương lịch: 01 ngày (ngày 01/01 dương lịch); Tết Âm lịch: 05 ngày; Ngày Chiến thắng: 01 ngày (ngày 30/4 dương lịch); Ngày Quốc tế lao động: 01 ngày (ngày 01/5 dương lịch); Quốc khánh: 02 ngày (ngày 02 tháng 9 dương lịch và 01 ngày liền kề trước hoặc sau); Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương: 01 ngày (ngày 10/3 âm lịch).
Trong những ngày này, người lao động được nghỉ làm việc và hưởng nguyên lương.
Thứ tám, tăng tuổi nghỉ hưu lên 62 tuổi với nam, 60 tuổi với nữ
- Khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động năm 2019, quy định: 
Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ. 
- Khoản 3 quy định đối với trường hợp, công việc đặc thù:
Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi.
So với quy định tại Điều 187 Bộ luật Lao động năm 2012 (được hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi), Bộ luật Lao động năm 2019quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động đã tăng lên đáng kể. Đồng thời, đối với những trường hợp, công việc đặc thù thì việc nghỉ hưu trước tuổi cũng được quy định cụ thể hơn./.

                                                                                                Quốc Việt

 

CÁC BÀI LIÊN QUAN

Trở về 1 2 3 4 5 Tiếp

Số lượt truy cập:7,780,357 lượt

Số người online:499 người

© Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định thiết kế và giữ bản quyền
Mong bạn đọc góp ý kiến. Thư điện tử liên hệ: trangtinvks_binhdinh@vks.gov.vn