Vụ án: tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn.
Vụ án: tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn.
Người tham gia tố tụng
Nguyên đơn: ông Võ Như Q, sinh năm 1947.
Địa chỉ: KP. DT, thị trấn PM, huyện PM, tỉnh BĐ.
Bị đơn: bà Châu Thị T, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Số 210 BĐ, thuộc tổ 24, KV5, phường THĐ, thành phố QN, tỉnh BĐ.
Người có quyền lơi, nghĩa vu liên quan: là 3 người con chung gồm: anh Võ Quang L; anh Võ Tường Li; anh Võ Như Ng.
Tài sản nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia
- Giấy chứng nhận QSDĐ số X 448620, số vào sổ 00349 QSDĐ do UBND huyện PM cấp ngày 14.11.2003, thửa đất có diện tích thực tế: đất ở đô thị (ODT) 300m2; đất trồng cây hàng năm khác (HNK) 2.351m2 (diện tích thực tế 2.988,9m2) tại tại thôn DT, thị trấn PM, huyện PM, nay là số 95 QT, thị trấn PM, huyện PM, tỉnh BĐ.
- Giấy chứng nhận QSDĐ số AB 560143, theo số vào sổ H 00122 ngày 14.01.2006 do UBND thành phố QN cấp, thửa đất tại 210 Bạch Đằng, thuộc tổ 24, KV5, phường THĐ, thành phố QN, tỉnh BĐ, diện tích 114,3m2 (diện tích thực tế 180,5m2).
Ông Võ Như Q tạm ứng 6,5 triệu đồng tiền chi phí tố tụng.
Ông Võ Như Q và bà Châu Thị T là người cao tuổi, nên không tạm ứng án phí.
Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 21/8/2020 Hội đồng xét xử - TAND thành phố QN, tỉnh BĐ ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 118/2020/QĐST-DS.
Theo đó, sự thoả thuận của các đương sự cụ thể như sau: Ông Võ Như Q và bà Châu Thị T thống nhất giải quyết khối tài sản chung của vợ chồng như sau:
- Giao cho anh Võ Quang L, anh Võ Tường Li và anh Võ Như Ng đồng sở hữu nhà và đất tại 210 BĐ, thuộc tổ 24, KV5, phường THĐ, thành phố QN, tỉnh BĐ theo Giấy chứng nhận QSDĐ số AB 560143, số vào sổ H 00122 ngày 14.01.2006 do UBND thành phố QN cấp; Tạm giao diện tích dôi dư 66,2m2 tại 210 BĐ, thành phố QN, tỉnh BĐ cho anh Võ Quang L, anh Võ Tường Li và anh Võ Như Ng quản lý, sử dụng và thực hiện đúng chính sách về đất đai (có bản vẽ kèm theo)
- Giao cho anh Võ Quang L, anh Võ Tường Li và anh Võ Như Ng đồng sở hữu nhà và đất tại thôn DT, thị trấn PM, huyện PM; nay là 95 QT, thị trấn PM, huyện PM, tỉnh BĐ theo Giấy chứng nhận QSDĐ số X 448620, số vào sổ 00349 QSDĐ do UBND huyện PM cấp ngày 14.11.2003, có tứ cận: Đông giáp đất sản xuất thuộc thửa số 35, Tây giáp quốc lộ 1A, Nam giáp đường đi vào xóm TV, Bắc giáp thửa số 28 (trạm xăng dầu); với diện tích thực tế: đất ở đô thị (ODT) 300m2; đất trồng cây hàng năm khác ( HNK) 2.988,9m2; Anh Võ Quang L, anh Võ Tường Li và anh Võ Như Ng có nghĩa vụ gia hạn thời hạn sử dụng đất theo pháp luật hiện hành và có trách nhiệm liên hệ các cơ quan chức năng để điều chỉnh lại diện tích đúng thực tế theo quy định pháp luật.
- Bà Châu Thị T có nghĩa vụ giao lại Giấy chứng nhận QSDĐ số X 448620, số vào sổ 00349 QSDĐ do UBND huyện PM cấp ngày 14.11.2003 và Giấy chứng nhận QSDĐ số AB 560143, theo số vào sổ H 00122 ngày 14.01.2006 do UBND thành phồ QN cấp cho Anh Võ Quang L, anh Võ Tường Li và anh Võ Như Ng sau khi án có hiệu lực pháp luật.
- Về chi phí định giá: ông Võ Như Q chịu 6,5 triệu đồng được trừ vào số tiền đã tạm ứng trước đây.
- Về án phí DSST:Anh Võ Quang L, anh Võ Tường Li và anh Võ Như Ng mỗi người phải chịu 99.095.000đồng.
Về hình thức Quyết định không ghi mối quan hệ tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn; không ghi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt hay vắng mặt tại phiên tòa nhưng thực tế ông Li vắng mặt tại phiên tòa.
Sau khi Tòa án nhân dân (TAND) thành phố QN, tỉnh BĐ ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 118/2020/QĐST-DS ngày 21/8/2020 thì bà Châu Thị T có đơn yêu cầu xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do bà không có sự thỏa thuận với ông Võ Như Q như nội dung quyết định và ông Võ Tường Li có đơn yêu cầu xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do ông vắng mặt tại phiên tòa mà sao Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa, nên ông không biết tài sản ở vị trí nào, giá trị bao nhiêu mà buộc ông phải chịu 99.095.000 đồng án phí theo giá ngạch là ông không đồng ý.
Với nội dung Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 118/2020/QĐST-DS ngày 21/8/2020 của TAND thành phố QN, tỉnh BĐ nêu trên, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, Hội đồng xét xử ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 118/2020/QĐST-DS ngày 21/8/2020 tại phiên tòa là có căn cứ, tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
- Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của tác giả cho rằng, Hội đồng xét xử ra Quyết định số 118/2020/QĐST-DS ngày 21/8/2020 (Quyết định số 118) công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa là vi phạm pháp luật tố tụng dân sự nghiêm trọng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của ông Li.
Đề nghị các bạn đọc thảo luận cho ý kiến về hai quan điểm, quan điểm nào phù hợp theo quy định của pháp luật./.
Lê Thanh Bình