BLHS năm 2015 có bảy điều luật quy định về vấn đề xóa án tích (tăng một điều so với BLHS năm 1999), trong đó có một điều (Điều 72) được giữ nguyên như quy định của BLHS năm 1999; một điều (Điều 89) được bổ sung mới và năm điều (các điều 69, 70, 71, 73 và 107) được sửa đổi, bổ sung.
Qua nghiên cứu, phân tích các điều luật, khi vận dụng trong thực tiễn, kiểm sát viên cần lưu ý một số nội dung quan trọng sau đây:
Thứ nhất, khoản 2 Điều 69 và Điều 107 của BLHS năm 2015 quy định rõ năm trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích. Đó là:
+ Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết án không kể về tội gì;
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;
+ Người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
+ Người đã thành niên bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng;
+ Người được miễn hình phạt.
Thứ hai, khoản 2 Điều 70 của BLHS giữ nguyên thời hạn một năm để được xóa án tích (đối với trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo); đồng thời, rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn hai năm đối với trường hợp bị phạt tù đến 5 năm; 3 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm; và 5 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Riêng trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Thứ ba, BLHS năm 2015 quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với BLHS năm 1999 theo hướng kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án.
Thứ tư, BLHS năm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, đồng thời, giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (LLTP) cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 70 của BLHS.
Thứ năm, đối với trường hợp xóa án tích do Tòa án quyết định, Điều 71 BLHS năm 2015 cũng đã rút ngắn thời hạn xóa án tích và quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với BLHS năm 1999.
Thứ sáu, cùng với việc bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, BLHS năm 2015 cũng đã bổ sung quy định pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích khi nếu trong thời hạn hai năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện hành vi phạm tội mới (Điều 89).
Trần Minh Quốc